Các tài liệu Mộc bản đã góp phần làm sáng tỏ chặng đường lịch sử 990 năm hình thành, xây dựng và phát triển, với nhiều lần thay đổi tên gọi, đơn vị hành chính của Thanh Hóa.
Thanh Hóa có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực miền Bắc Việt Nam. Nơi đây còn lưu giữ nhiều dấu tích của người cổ đại, Núi Đọ mấy chục vạn năm về trước; nơi phát lộ và là trung tâm của văn hóa Đông Sơn - văn hóa đồ đồng rực rỡ, với trống đồng Đông Sơn đặc sắc, không những nổi tiếng ở trong nước mà cả ở khu vực Đông Nam Á và thế giới.
Vùng đất giàu di tích và truyền thuyết được kể đến như truyền thuyết về Mai An Tiêm, Từ Thức gặp tiên vẫn còn lưu dấu ở xứ Thanh. Thanh Hóa còn được lịch sử ghi nhận là quê hương, nơi phát tích của nhiều triều đại: nhà tiền Lê (Lê Hoàn), nhà Hồ (Hồ Quý Lê), nhà hậu Lê (Lê Lợi), chúa Nguyễn (Nguyễn Kim), chúa Trịnh (Trịnh Kiểm), các triều đại này đã ghi dấu ấn rất sâu đậm trong tiến trình lịch sử bảo tồn và phát triển quốc gia Đại Việt, Đại Nam.
Địa anh Thanh Hóa là vùng đất cổ xưa với nhiều lần thay đổi và tên gọi khác nhau, những dấu mốc lịch sử hình thành của vùng đất xứ Thanh được lưu dấu tại rất nhiều di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử, danh lam nổi tiếng, được ghi chép lại trong các bộ cổ sử của dân tộc như “Đại Nam nhất thống chí”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, “Đại Việt sử ký toàn thư”... nằm trong khối tài liệu Mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV - Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước.
Mộc bản sách “Đại Nam nhất thống chí” tại quyển 16, mặt khắc 3 ghi lại: “Xưa là bộ Cửu Chân, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Triệu là quận Cửu Chân, đời Hán vẫn giữ tên như cũ và thống thuộc bộ Giao Chỉ. Đời Đông Ngô, năm Nguyên Hưng thứ 1, chia quận Cửu Chân đặt thêm quận Cửu Đức, đời Tần, đời Tống cũng theo như thế. Vũ Đế nhà Lương lấy Cửu Chân làm châu Ái (tên Ái châu bắt đầu từ đấy). Đầu đời Tùy, bỏ quận Cửu Chân, chỉ gọi là châu Ái, sau lại đổi châu Ái làm quận Cửu Chân, đời Đường gọi là châu Ái”.
Vào năm Thiên Thành thứ 2 (1029), vua Lý Thái Tông cho đổi trại Ái châu làm Thanh Hoa phủ. Theo Mộc bản sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” quyển 21, mặt khắc 20, cho biết “Thanh Hóa: Đời Hùng Vương xưa Thanh Hóa thuộc bộ Cửu Chân; nhà Tần thuộc Tượng Quận; nhà Hán là quận Cửu Chân; Ngô, Tần và Tống cũng theo tên cũ của Hán; Lương Võ đế đổi Cửu Chân làm Ái Châu; nhà Tùy lại gọi là Cửu Chân quận; nhà Đường chia đặt làm 2 quận: Ái Châu và Cửu Chân. Nhà Đinh và nhà Lê gọi Thanh Hóa là Ái Châu; nhà Lý đổi làm trại, năm Thiên Thành thứ hai đổi làm Thanh Hóa (Thanh Hoa) phủ” – tên gọi Thanh Hóa bắt đầu xuất hiện từ đây.
 |
| Năm Kỷ Tỵ (1029), vua Lý Thái Tông cho đổi trại Ái Châu làm Thanh Hoa phủ - Danh xưng Thanh Hóa bắt đầu xuất hiện từ đây (Bản dập Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 21, mặt khắc 20) Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV |
Vua Trần Thái Tông chia địa giới trong nước thành 12 lộ, trong đó có lộ Thanh Hóa, năm Nhâm Dần (1242): “Mười hai lộ: Sử cũ không chép rõ, nhưng căn cứ những tài liệu ghi chép từ trước, thì thấy các lộ sau này: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang, Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng, Khoái, Thanh Hóa, Hoàng Giang, Diễn Châu. Lại có phủ, châu, trấn như Tân Bình, Nghệ An, Thái Nguyên, Lạng Giang. Có lẽ quy chế nhà Trần, những phủ, châu, trấn thì thống thuộc cả vào lộ”. Đến năm Đinh Sửu (1397), vua Trần Thuận Tông cho đổi trấn Thanh Hóa thành trấn Thanh Đô, Mộc bản sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, quyển 8, mặt khắc 29 ghi lại “Mùa hạ, tháng 4, đổi trấn Thanh Hóa thành trấn Thanh Đô; trấn Thanh Oai thành trấn Quảng Oai; trấn Đà Giang thành trấn Thiên Hưng; trấn Nghệ An thành trấn Lâm An; trấn Trường Yên thành trấn Thiên Quan; trấn Lạng Giang thành trấn Lạng Sơn; trấn Diễn Châu thành trấn Vọng Giang; trấn Tân Bình thành trấn Tây Bình”.
Sau khi nhà Hồ thay nhà Trần, Hồ Hán Thương cho đổi phủ Thanh Đô làm phủ Thiên Xương vào năm Quý Mùi (1403). Mộc bản sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, quyển 12, mặt khắc 1 ghi rõ “Đặt tứ phụ ở kinh kỳ. Cơ sở ở Tây Đô đã xây dựng xong, Hán Thương lại đổi phủ Thanh Đô làm phủ Thiên Xương, phủ Diễn Châu làm phủ Linh Nguyên, hợp với Cửu Chân, Ái Châu gọi là “tứ phụ”, đổi tên núi Đại Lại làm núi Kim Âu”
Năm 1428, sau kháng chiến chống quân Minh giành thắng lợi, Lê Lợi (Lê Thái Tổ) lên ngôi đã chia nước thành 5 đạo, Thanh Hóa thuộc Hải Tây đạo. Mộc bản sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, quyển 15, mặt khắc 5 khắc ghi lại “Lê Thái tổ chia trong nước làm 5 đạo. Thiết lập các vệ quân, đặt Tổng quản và Hành khiển chia giữ sổ sách về quân và dân. Trước kia, nhà vua ra Đông Đô, chia trong nước làm bốn đạo. Đến đây, trong nước đã yên hẳn rồi, lại đặt thêm đạo Hải Tây, cho Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa đều lệ thuộc vào đó. Các lộ Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa đều thuộc Tây Đạo”.
 |
| Lê Thái Tổ sau khi lên ngôi đã chia nước thành 5 đạo, Thanh Hóa thuộc Hải Tây đạo, năm Mậu Thân (1428) (Bản dập Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 15, mặt khắc 5) Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV |
Đến năm Bính Tuất (1466), vua Lê Thánh Tông chia nước thành 12 đạo Thừa tuyên, Thanh Hóa được gọi là Thừa tuyên Thanh Hóa. “Đến nay chia trong nước làm 12 đạo thừa tuyên là Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn” (1).
Năm Kỷ Sửu (1469), vua Lê Thánh Tông cho định bản đồ trong nước thành 12 đạo thừa tuyên. Thanh Hóa quản lĩnh 4 phủ, 16 huyện, 4 châu... Phủ Triệu Thiên quản lĩnh 8 huyện: Thụy Nguyên, Vĩnh Phúc, Đông Sơn, Lôi Dương, An Định, Cẩm Thủy, Thạch Thành và Quảng Bình. Phủ Hà Trung quản lĩnh 4 huyện: Hoằng Hóa, Thuần Khang, Nga Sơn và Tống Sơn. Phủ Tĩnh Gia quản lĩnh 3 huyện: Nông Cống, Ngọc Sơn và Quảng Xương. Phủ Thanh Đô quản lĩnh 1 huyện: Thọ Xuân và 4 châu: Quan Da, Lang Chánh, Tàm Châu và Sầm Châu” (2). Cùng năm 1469, vua Lê Thánh Tông đã cho chia tách và đổi tên gọi một số phủ, huyện, châu của tỉnh Thanh Hóa. Tại Mộc bản sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, quyển 21, mặt khắc 33 chép “Phủ Thiệu Thiên nay là phủ Thiệu Hóa; huyện Vĩnh Phúc nay là huyện Vĩnh Lộc; huyện Quảng Bình nay là huyện Quảng Địa, lại đổi là Quảng Tế; huyện Thuần Lộc nay là huyện Hậu Lộc; phủ Thanh Đô nay chia làm hai phủ: Quảng Hóa và Thọ Xuân; còn các châu Quan Da, Tàm Châu và Sầm Châu nay đều lệ thuộc vào châu Quan Hóa. Những phủ, huyện và châu trên này đều thuộc tỉnh Thanh Hóa”
Năm Qúy Mão (1723), đời vua Lê Dụ Tông, nhà vua đã cho xác nhập hai phủ Trường Yên và Thiên Quan thuộc vào Thanh Hóa: Bản đồ cũ trong nước gồm 13 đạo, xét ra các xã dân thuộc về các phủ, huyện, cũng có nơi xa nơi gần không đều nhau: "Năm ấy, làm sổ hộ, vua hạ lệnh: tùy tình thế từng địa phương đổi lại cho lệ thuộc và 13 thừa tuyên theo như chế độ cũ đời Hồng Đức. Đem hai phủ Trường Yên và Thiên Quan trước thuộc Sơn Nam nay cho thuộc vào Thanh Hoa. Về trấn Sơn Tây, thì đem phần huyện Bất Bạt trước thuôc phủ Đà Dương nay cho lệ thuộc vào phủ Quảng Oai. Phần huyện Tam Nông nay cho lệ thuộc vào phủ Lâm Thao. Còn các xã, thôn khác phần nhiều thay đổi cho lệ thuộc và các châu, huyện...” (3).
Trong Mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 17, mặt khắc 18 khắc dưới triều Nguyễn, năm Gia Long thứ nhất, năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long chia trấn Thanh Hoa gồm có 4 phủ và 16 huyện: “Trấn Thanh Hoa có 4 phủ là Hà Trung, Tĩnh Gia, Thanh Đô, Thiệu Thiên, 16 huyện là Tống Sơn, Hoằng Hóa, Phong Lộc, Nga Sơn, Nông Cống, Ngọc Sơn, Quảng Xương, Thọ Xuân, Đông Sơn, Yên Định, Quảng Bình, Thạch Thành, Cẩm Thủy, Vĩnh Lộc, Lôi Dương, Thụy Nguyên, 3 châu là Quan Da, Lang Chánh, Tàm. Trấn Thanh Hoa ngoại 2 phủ là Trường Yên, Thiên Quan, 6 huyện là Yên Khang, Yên Mô, Gia Viễn, Yên Hóa, Phụng Hóa, Lạc Thổ”.
Dưới triều vua Minh Mạng, nhà vua cho đặt phủ Trấn Man thống lĩnh ba huyện Trình Cố, Sầm Nưa, Man Xôi, năm Mậu Tý (1828) và phủ Trấn Biên cho lệ vào và cho đổi thuộc về Thanh Hoa quản hạt (4).
Năm Tân Mão (1831), trấn Thanh Hoa làm sổ địa bạ, ra lệnh phàm những dân ở ven rừng núi và các huyện mới đặt ra, đều cho đình hoãn về Thanh Hoa 3 huyện: Cẩm Thuỷ, Thạch Thành và Quảng Địa thuộc phủ Thiệu Hoá; châu Thọ Xuân, Lang Chánh và Quan Da thuộc phủ Thọ Xuân; 2 tổng Như Lăng, Lãng Lăng thuộc huyện Nông Cống.
Lúc này, để dễ bề quản lý đất nước, vua Minh Mệnh cho chia định địa hạt các tỉnh, trong đó tỉnh Thanh Hoa gồm 5 phủ và 19 huyện, năm Tân Mão (1831). Mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 76, mặt khắc 16: Chia định địa hạt các tỉnh. Thanh Hoa: thống trị 5 phủ là Hà Trung, Tĩnh Gia, Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Trấn Man; 19 huyện là Tống Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Nga Sơn, Thuỵ Nguyên, Đông Sơn, An Định, Quảng Địa, Ngọc Sơn, Nông Cống, Quảng Xương, Lôi Dương, Thọ Xuân, Trình Cố, Vĩnh Lộc, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Sầm Nưa, Man Xôi; 3 châu là Lang Chánh, Quan Da, Tàm Châu. Vua còn cho đặt đồn Trấn Man ở tỉnh Thanh Hoa. Năm Qúy Tỵ (1833) “Đặt đồn Trấn Man ở tỉnh Thanh Hoa. Vua cho rằng Phố Cát thuộc tỉnh Thanh Hoa là nơi địa đầu xung yếu, lại gần Nguyên miếu, nên sửa sang lập đồn trại để phòng bị cho được nghiêm ngặt, bèn sai Tuần phủ Nguyễn Khả Bằng và Bố chính Nguyễn Đăng Giai đem đi xem đất, chọn lấy chỗ hình thế đẹp. Rồi họp các thợ khởi công xây đắp ở trang Đông Bình (thuộc huyện Tống Sơn), gọi tên là đồn Trấn Man, phái 200 lính tỉnh đến đóng giữ” (5).
Đến năm Ất Mùi (1835), vua Minh Mạng cho chia phủ Thiệu Hóa làm hai phủ Thiệu Hóa và Quảng Hóa: “Thiệu Hóa trước thống trị 7 huyện đất rộng mênh mông, nên chuẩn cho lấy 3 huyện Thụy Nguyên, Đông Sơn, An Định vẫn làm phủ Thiệu Hóa, kiêm lý Thụy Nguyên, thống hạt Đông Sơn, An Định, rút 4 huyện Vĩnh Lộc, Cẩm Thủy, Thạch Thành và Quảng Địa đặt thêm làm phủ Quảng Hóa kiêm lý Vĩnh Lộc, thống hạt Cẩm Thủy, Thạch Thành và Quảng Địa. Lại vì huyện Thọ Xuân và Tàm Châu, đinh điền không có mấy, nên sai hợp huyện Thọ Xuân với châu Lang Chánh làm một, đổi làm châu Lang Chánh; Tàm Châu với châu Quan Gia làm một, đổi làm châu Quan Hóa” (6).
Mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 194, mặt khắc 5 chép: vua Minh Mệnh cho đặt thêm huyện Mỹ Hoá (thuộc phủ Hà Trung), năm Mậu Tuất (1838):“Đặt thêm huyện Mỹ Hoá ở tỉnh Thanh Hoa, huyện Hoàng Hoá, hạt tỉnh ấy địa thế rộng xa, công việc bận nhiều, quan tỉnh xin lượng chia làm hai, bèn chuẩn cho 5 tổng là Từ Minh, Hàng Vĩ, Bút Sơn, Bái Cầu, Kim Chuyết (100 xã thôn) vẫn để làm huyện Hoàng Hoá, 3 tổng Dương Sơn, Dương Thuỷ, Lỗ Hương cùng với 1 tổng Đại Lý huyện Hậu Lộc (79 xã) đặt làm huyện Mỹ Hoá thuộc phủ Hà Trung thống hạt”.
Bên cạnh đó, nhà vua cho đặt thêm phân phủ Phủ Hà Trung tỉnh Thanh Hoa, phủ Hà Trung nguyên cai quản 4 huyện (Tống Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Nga Sơn, gần đây lại đặt thêm 1 huyện (Mỹ Hoá), Bộ Lại bàn xin thêm đồng tri phủ để chia trị, bèn chuẩn cho tri phủ kiêm lý Tống Sơn, thống hạt Nga Sơn, Hậu Lộc; phân phủ kiêm lý Hoằng Hoá, thống hạt Mỹ Hoá. Đến thời vua Thiệu trị, tỉnh Thanh Hóa có 6 phủ, 19 huyện, 3 châu là phủ Hà Trung lĩnh 5 huyện: Tống Sơn, Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Mỹ Hóa; phủ Thiệu Hóa lĩnh 3 huyện: Thụy Nguyên, Đông Sơn, An Định; phủ Tĩnh Gia lĩnh 2 huyện: Ngọc Sơn, Nông Cống, Quảng Xương; phủ Thọ Xuân lĩnh 1 huyện: Lôi Dương và 3 châu: Lang Chánh, Quang Hóa, Thường Xuân; phủ Trấn Man lĩnh 3 huyện: Man Duy, Trình Cố, Sần Nưa; phủ Quảng Hóa lĩnh 4 huyện: Vĩnh Lộc, Cẩm Thủy, Quảng Địa, Thạch Thành...
Mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ tam kỷ”, quyển 33, mặt khắc 5 chép “Vua Thiệu Trị cho đổi tên tỉnh Thanh Hoa làm tỉnh Thanh Hoá, năm Quý Mão (1843); đổi tên gọi tỉnh Thanh Hoa là tỉnh Thanh Hoá. Trước kia, vì huý nhà vua, phải đổi lại cả ấn triện. Nay, vua nói: Những chữ huý ở Thái miếu rất là tôn trọng, theo lễ phải nên cung kính mà kiêng tránh. Nhưng đối với cái nơi phát tích nghìn muôn đời, cũng phải nên còn lại sự thực. Xét các sử sách của nước Nam, tỉnh Thanh đời cổ là Thanh Hoá. Vậy chuẩn cho lấy lại tên cổ, phàm các dấu quan phòng và ấn triện cũng đều đổi lại mà ban cấp”.
 |
| Vua Thiệu Trị cho đổi tên tỉnh Thanh Hoa làm tỉnh Thanh Hoá, năm Quý Mão (1843) (Bản dập Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ tam kỷ, quyển 32, mặt khắc 5) Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV |
Qua các tài liệu Mộc bản, tên gọi Thanh Hóa gắn với địa danh hành chính phủ được đổi từ trại (Ái Châu) năm 1029, đời vua Lý Thái Tông. Sau đó, tên gọi Thanh Hóa phủ được tiếp tục duy trì từ năm 1111 đến năm 1240; Thanh Hóa trại (1256-1263); đến cuối đời Trần Dụ Tông (1341-1357), đổi gọi làm lộ, chia đặt 3 phủ, trong đó có phủ Thanh Hóa, thời Quang Thuận (1460-1469) đặt thừa tuyên Thanh Hóa. Lê trung hưng đặt làm Thanh Hoa nội trấn, Thanh Hoa ngoại trấn... Đến thời Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đặt tên tỉnh Thanh Hoa. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) (vì kiêng húy thân mẫu nhà vua là Hồ Thị Hoa) nên đổi tên là tỉnh Thanh Hóa. Năm 2019, tỉnh Thanh Hóa đã trải qua chặng đường lịch sử 990 năm hình thành, xây dựng và phát triển, với nhiều lần thay đổi tên gọi, đơn vị hành chính, với biết bao thăng trầm của lịch sử, tự hào của nhân dân xứ Thanh cùng cả nước đi lên xây dựng đất nước hôm nay./.