Cải cách, cắt giảm thủ tục hành chính tạo động lực thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Tóm tắt: Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân tiếp tục khẳng định mục tiêu đưa “kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045 có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng trên 60% GDP”. Để hiện thực hóa được mục tiêu này, một trong những yêu cầu đặt ra là phải đẩy mạnh cắt giảm và cải cách thủ tục hành chính một cách toàn diện để tạo động lực thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, đóng góp tích cực cho sự vươn lên của nền kinh tế quốc gia trong kỷ nguyên mới.

Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị nhiều lần đề cập đến cụm từ “thủ tục hành chính” với những yêu cầu cụ thể như: cắt giảm số lượng, thời gian xử lý và tạo mọi thuận lợi trong giải quyết thủ tục hành chính (TTHC); thực hiện phân công, phân cấp, phân nhiệm rõ ràng giữa các cấp, ngành và từng cơ quan, đơn vị; xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong việc tổ chức, chỉ đạo và giải quyết TTHC. Điều này cho thấy, việc cải cách mạnh mẽ, tiến tới xóa bỏ các rào cản hành chính từ phía nhà nước là một trong những yêu cầu cấp thiết, giúp giải phóng các nguồn lực cho khu vực tư nhân và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đặc biệt, đặt trong bối cảnh của cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính (ĐVHC) và vận hành mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, yêu cầu về một hệ thống hành chính hoạt động thông suốt, hiệu quả nói chung và cắt giảm, đơn giản hóa TTHC liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh nói riêng được đặt ra ngày càng rõ ràng và cấp thiết hơn.

1. Bối cảnh đặc biệt và quyết tâm chính trị mạnh mẽ cho hoạt động cải cách thủ tục hành chính

Sáu tháng đầu năm 2025 là một giai đoạn có ý nghĩa đặc biệt, khi cả hệ thống chính trị tập trung vào việc sắp xếp ĐVHC và vận hành mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp. Đây là một cuộc tái cấu trúc sâu rộng, đòi hỏi sự đồng bộ và thông suốt trong mọi hoạt động quản lý nhà nước. Nhận thức rõ điều này, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Tổng Bí thư Tô Lâm, đã đặt công tác cải cách TTHC vào vị trí trung tâm, coi đây là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để bảo đảm sự vận hành hiệu quả của bộ máy mới.

Quyết tâm này không chỉ dừng lại ở chủ trương, chỉ đạo mà còn được thể hiện bằng những hành động cụ thể, quyết liệt. Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành và địa phương phải tập trung thực hiện các nhiệm vụ cốt lõi; phân định rõ thẩm quyền quản lý, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong giải quyết TTHC. Mục tiêu cuối cùng là kiên quyết cắt giảm những điều kiện đầu tư kinh doanh không cần thiết, giảm thiểu chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp và người dân, rút ngắn thời gian giải quyết TTHC, qua đó tháo gỡ triệt để các vướng mắc, khơi thông mọi nguồn lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và doanh nghiệp.

Để thể chế hóa quyết tâm này, một loạt các văn bản pháp quy mang tính đột phá được ban hành. Cụ thể là Nghị định số 118/2025/NĐ-CP ngày 09/6/2025 của Chính phủ về thực hiện TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại Bộ phận một cửa và Cổng Dịch vụ công quốc gia. Nghị định số 118/2025/NĐ-CP quy định nhiều điểm mới, có tính cách mạng, không chỉ phù hợp với chủ trương sắp xếp ĐVHC mà còn phá bỏ rào cản về địa giới, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân và doanh nghiệp. Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành kế hoạch triển khai(1) và 05 công điện để chỉ đạo quyết liệt việc đồng bộ dữ liệu, nâng cấp hệ thống thông tin và tăng cường kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành. Đồng thời, tiến hành thành lập Ban Chỉ đạo của Chính phủ về cải cách TTHC và phân cấp, phân quyền, do chính Thủ tướng làm Trưởng ban(2). Việc này đã nâng tầm quan trọng của công tác cải cách TTHC, thay thế mô hình Tổ công tác trước đây, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc tinh gọn tổ chức bộ máy, ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giải quyết TTHC...

Những hoạt động trên cho thấy một thông điệp nhất quán: cải cách TTHC không còn là một công việc thường xuyên của bộ máy hành chính, mà đã trở thành một cuộc cách mạng trong tư duy và hành động để kiến tạo phát triển, trong đó đối tượng trung tâm được hưởng lợi chính là người dân và cộng đồng doanh nghiệp tư nhân.

2. Kết quả cải cách thủ tục hành chính trong 06 tháng đầu năm 2025 và những tác động trực tiếp đến kinh tế tư nhân

Thứ nhất, kiểm soát các quy định về TTHC, loại bỏ các rào cản để kiến tạo không gian phát triển mới.

Trên thực tế, các quy định về TTHC có tác động trực tiếp và ảnh hưởng sâu rộng đến doanh nghiệp. Một quy định TTHC không hợp lý có thể trở thành rào cản đối với các nhà đầu tư, làm tăng chi phí và giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Để khắc phục vấn đề này, công tác cải cách TTHC đã được các cơ quan có thẩm quyền triển khai theo hai hướng sau:

Một là, kiểm soát chặt chẽ quy định TTHC. Việc thẩm định, thẩm tra các quy định TTHC trong các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) đóng vai trò như một “bộ lọc” quan trọng. Trong 06 tháng đầu năm 2025, Văn phòng Chính phủ đã thẩm tra 1.057 TTHC và 72 quy định kinh doanh (QĐKD) tại 78 văn bản QPPL, qua đó đề nghị không quy định 17 TTHC và sửa đổi, bổ sung 558 TTHC cùng 33 QĐKD. Tỷ lệ đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc không ban hành lên tới 53,9%. Con số này cho thấy vai trò và hiệu quả của cơ quan thẩm tra trong việc ngăn chặn từ sớm những quy định có thể gây khó khăn, tốn kém cho doanh nghiệp, bảo đảm các chính sách mới khi ban hành được cân nhắc kỹ lưỡng về tác động.

Hai là, quyết liệt cắt giảm, đơn giản hóa TTHC - hoạt động mà các doanh nghiệp cảm nhận rõ nhất lợi ích của cải cách. Thực thi Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26/3/2025 của Chính phủ về cắt giảm TTHC liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong 06 tháng đầu năm 2025, các bộ, cơ quan đã cắt giảm, đơn giản hóa được 872 TTHC và 90 điều kiện kinh doanh. Quan trọng hơn, có 09/14 bộ, cơ quan đã xây dựng phương án dự kiến cắt giảm, đơn giản hóa thêm 1.570 TTHC (đạt tỷ lệ 54%) và 1.505 điều kiện kinh doanh (đạt tỷ lệ 32%). Đáng chú ý, các phương án này đều hướng tới mục tiêu là cắt giảm 30% thời gian giải quyết và 30% chi phí tuân thủ. Điển hình là các Bộ Tư pháp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang đi đầu với tỷ lệ cắt giảm cao. Đối với một doanh nghiệp tư nhân, việc giảm 30% thời gian chờ đợi cấp phép hay giảm 30% chi phí đi lại, chuẩn bị hồ sơ là những lợi ích kinh tế hữu hình, giúp tiết kiệm nguồn lực và không bị bỏ lỡ các cơ hội trong kinh doanh.

Đặc biệt, việc Chính phủ ban hành 28 nghị định về phân cấp, phân quyền được xem là một bước tiến lịch sử. Thực tế đã có 556 TTHC được chuyển từ Trung ương về cho địa phương và 346 TTHC của cấp huyện (trước đây) được phân định lại cho cấp tỉnh và cấp xã. Tổng số TTHC tại địa phương hiện là 2.624, trong đó cấp tỉnh là 2.161 và cấp xã là 463. Điều này có ý nghĩa lớn đối với doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các địa phương. Các doanh nghiệp không phải di chuyển xa, tốn kém chi phí để giải quyết thủ tục mà được xử lý ngay tại địa phương, gần hơn, nhanh chóng hơn, giúp doanh nghiệp nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh.

Bên cạnh đó, việc cắt giảm, đơn giản hóa 986/1.084 TTHC liên quan đến quản lý dân cư (đạt 91%) và các TTHC liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp cũng phần nào mang lại những lợi ích nhất định cho các doanh nghiệp. Đó là giúp giảm gánh nặng thủ tục cho người lao động, cho các nhà quản lý doanh nghiệp với tư cách là công dân, đồng thời tạo cơ sở dữ liệu sạch, góp phần đơn giản hóa các thủ tục mà doanh nghiệp cần thực hiện liên quan đến nhân sự, lao động. Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra một thực tế đáng lo ngại là tiến độ thực thi phương án liên quan đến lý lịch tư pháp còn rất chậm, mới đạt 21%, với 07 bộ, cơ quan chưa thực thi. Đây là một điểm nghẽn cần khẩn trương tháo gỡ.

Thứ hai, hiện đại hóa phương thức thực hiện TTHC, xây dựng “một cửa số” quốc gia.

Nếu như cải cách quy định TTHC là thay đổi mang tính nguyên tắc, ở góc độ thể chế thì hiện đại hóa phương thức thực hiện là những thay đổi cụ thể, trực tiếp hướng tới sự minh bạch, tiện lợi và hiệu quả cho người dân, doanh nghiệp.

Việc đóng giao diện Cổng Dịch vụ công cấp tỉnh và chuyển toàn bộ sang Cổng Dịch vụ công quốc gia từ ngày 01/7/2025 là một cuộc cách mạng. Hiện nay, 34/34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sau sáp nhập đã hoàn thành việc đồng bộ dữ liệu và kiểm thử thành công các tính năng quan trọng như đăng nhập một lần, thanh toán trực tuyến. Điều này tạo ra một “siêu trung tâm dịch vụ công” duy nhất trên toàn quốc. Doanh nghiệp tư nhân dù ở bất cứ nơi đâu đều có thể truy cập vào một địa chỉ duy nhất, thực hiện các thủ tục từ đăng ký kinh doanh, khai thuế, đến xin cấp phép xây dựng... mà không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Điều này không chỉ tiết kiệm chi phí, thời gian mà còn tăng cường tính minh bạch, giảm thiểu tiêu cực, nhũng nhiễu.

Bên cạnh việc cải cách TTHC thông qua kênh trực tuyến, kênh trực tiếp cũng được chuẩn hóa. Việc 31/34 địa phương hoàn thành kiện toàn Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh và 34/34 địa phương cơ bản tổ chức Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp xã theo mô hình của Nghị định số 118/2025/NĐ-CP là một nỗ lực rất lớn. Các trung tâm này được kỳ vọng sẽ trở thành bộ mặt chuyên nghiệp của chính quyền, nơi doanh nghiệp và người dân được phục vụ một cách tốt nhất với đội ngũ nhân sự được đào tạo và cơ sở vật chất được đầu tư.

Thứ ba, tăng cường đối thoại và xử lý phản ánh, kiến nghị, lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp.

Một chính quyền kiến tạo không chỉ ban hành chính sách mà còn phải biết lắng nghe ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp. Trong tháng 6/2025, hệ thống đã tiếp nhận 18.580 phản ánh, kiến nghị mới. Mặc dù tỷ lệ xử lý còn thấp (22%) song qua việc ghi nhận và phân loại các phản ánh kiến nghị này cho thấy vẫn còn tồn tại các vấn đề “nóng” mà doanh nghiệp và người dân đang gặp phải như chậm trả Phiếu lý lịch tư pháp, chậm cấp biển số xe, chậm giải quyết hồ sơ liên thông. Đây là nguồn thông tin đầu vào quan trọng để các cơ quan nhà nước nhận diện điểm nghẽn và có giải pháp khắc phục. Tuy nhiên, con số hơn 45.000 phản ánh, kiến nghị tồn đọng chuyển sang tháng sau là một vấn đề cần chú ý để cải thiện về hiệu quả của hoạt động này.

3. Những tồn tại, hạn chế - rào cản trên con đường phát triển của đất nước

Bên cạnh những thành tựu ấn tượng, những tồn tại, hạn chế trong công tác cải cách TTHC thời gian qua cũng còn nhiều vấn đề đang đặt ra. Đây là những rào cản đang làm chậm lại đà phát triển của kinh tế tư nhân.

Theo Báo cáo Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX)(3) do Bộ Nội vụ công bố hàng năm, chất lượng phục vụ của chính quyền các cấp những năm sau đều có những cải thiện hơn so với những năm trước, được người dân và doanh nghiệp ghi nhận. Tuy nhiên, một trong những tồn tại, hạn chế được chỉ ra trong nhiều năm qua chưa được khắc phục triệt để đó là việc công bố, công khai TTHC và kết quả giải quyết hồ sơ ở nhiều chỗ, nhiều nơi chưa đảm bảo; tình trạng giải quyết hồ sơ trễ hẹn vẫn còn phổ biến; việc xử lý các vấn đề về TTHC theo phân cấp, ủy quyền còn chậm.

Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2024 ghi nhận những xu hướng tích cực, phản ánh chất lượng điều hành kinh tế cấp tỉnh đang được cải thiện. Tuy nhiên, một số lĩnh vực thuế, phí, giải phóng mặt bằng, phòng cháy, chữa cháy và quản lý thị trường vẫn tiềm ẩn các rào cản “vô hình” và cơ chế “xin - cho” do trong quá trình giải quyết phải tiếp xúc trực tiếp với cán bộ, công chức.v.v(4).

Tính từ đầu năm 2025 đến nay, chất lượng phương án cắt giảm TTHC được các bộ, ngành đưa ra chưa đồng đều; một số bộ, cơ quan xây dựng phương án cắt giảm TTHC còn mang tính hình thức, chưa thực sự đi vào thực chất, chưa đáp ứng mục tiêu đề ra(5). Vẫn còn 05/14 bộ chưa hoàn thành việc xây dựng phương án và 02 bộ chưa cập nhật đầy đủ kết quả lên hệ thống. Sự chậm trễ và thiếu quyết liệt ở một vài mắt xích đang làm ảnh hưởng đến nỗ lực chung của cả hệ thống. Đối với doanh nghiệp, khi TTHC còn rườm rà ở một bộ, ngành nào đó thì cũng đủ để làm ách tắc cả một chu trình đầu tư, kinh doanh.

 

Bên cạnh đó, hạ tầng công nghệ thông tin và chia sẻ dữ liệu còn nhiều bất cập; việc nâng cấp hệ thống thông tin ở một số địa phương còn chậm; nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia chưa được triển khai đồng bộ... đã dẫn đến việc tái sử dụng dữ liệu chưa hiệu quả; doanh nghiệp vẫn phải cung cấp thông tin lặp đi lặp lại cho các cơ quan khác nhau, gây lãng phí thời gian và nguồn lực. Trong khi đó,

năng lực của một bộ phận công chức còn hạn chế. Thực tế kiểm tra hoạt động của chính quyền địa phương 02 cấp ở một số địa phương cho thấy, một số công chức cấp xã tại Trung tâm Phục vụ hành chính công chưa nắm chắc chế độ, chính sách cũng như quy trình giải quyết phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết TTHC.

4. Nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp đột phá trong thời gian tới

Một là, tuân thủ nghiêm các yêu cầu của Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26/3/2025 của Chính phủ về cắt giảm TTHC liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2025 và năm 2026. Đồng thời tiếp tục hoàn thiện thể chế, khung pháp lý, sửa đổi, thay thế các văn bản pháp luật không còn phù hợp và ban hành các hướng dẫn thống nhất để thực thi các luật liên quan đến doanh nghiệp. Nghiên cứu đề xuất dự án luật tổng thể để sửa đổi nhiều luật cùng lúc, đảm bảo sự nhất quán và hiệu quả lập pháp cao hơn. Các bộ, ngành, đặc biệt là 05 bộ(6) còn chậm trễ cần khẩn trương hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án cắt giảm theo đúng yêu cầu. Phương án phải có chất lượng, có định lượng rõ ràng về chi phí, thời gian cắt giảm. Văn phòng Chính phủ và Hội đồng tư vấn cải cách TTHC cần tiếp tục phát huy vai trò thẩm tra, phản biện một cách độc lập, mạnh mẽ để bảo đảm chất lượng của các phương án này.

Hai là, tập trung ưu tiên và sử dụng hiệu quả nguồn lực để xây dựng thành công “một cửa số” quốc gia và hoàn thiện hệ sinh thái dữ liệu số, đồng thời bảo đảm hạ tầng Cổng Dịch vụ công quốc gia hoạt động ổn định, thông suốt, đặc biệt trong giai đoạn chuyển đổi hạ tầng lên Trung tâm Dữ liệu quốc gia. Phải quyết liệt đẩy nhanh việc nâng cấp các hệ thống thông tin, nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia. Cần có một cơ chế chỉ huy, điều phối thống nhất, đủ mạnh để bảo đảm dữ liệu về dân cư, doanh nghiệp, đất đai... được kết nối, chia sẻ thông suốt, phục vụ hiệu quả cho việc giải quyết TTHC mà doanh nghiệp không phải cung cấp lại thông tin. Đẩy nhanh việc thực hiện TTHC trực tuyến và liên thông dữ liệu với mục tiêu 100% TTHC liên quan đến doanh nghiệp được cung cấp trực tuyến và không phụ thuộc vào địa giới hành chính.

Các cơ quan, đơn vị liên quan cần chủ động phối hợp để xây dựng khung khổ pháp lý, tiêu chuẩn kỹ thuật và triển khai thí điểm các ứng dụng trí tuệ nhận tạo (AI) trong những lĩnh vực có tần suất giao dịch cao và ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp như đăng ký kinh doanh, thuế, hải quan, đất đai.

Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, thay đổi toàn diện tư duy “quản lý” sang “phục vụ” người dân và doanh nghiệp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “tận tụy - liêm chính”. Bộ Nội vụ cần triển khai quyết liệt và hiệu quả Đề án Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác CCHC giai đoạn 2022 - 2030. Đảm bảo mục tiêu năm 2030 có trên 95% công chức làm công tác CCHC được bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng cần thiết. Đổi mới căn bản nội dung đào tạo, bồi dưỡng công chức, chú trọng phát triển kỹ năng mềm (giao tiếp, xử lý tình huống), năng lực số để thích ứng với chính quyền điện tử, nâng cao đạo đức công vụ, thay đổi tư duy theo hướng lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Trong đó, chú trọng tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức làm việc tại các Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp xã nhằm trang bị kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng phục vụ, giúp họ nắm vững quy trình, nâng cao hiệu quả công việc.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm vi phạm và giải quyết hiệu quả, dứt điểm những phản ánh, kiến nghị từ cá nhân, tổ chức về những khó khăn trong thực hiện quy định, TTHC. Đối với việc xử lý, giải quyết các phản ánh, kiến nghị quá hạn, cần quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương; đồng thời công khai kết quả xử lý để cộng đồng doanh nghiệp và xã hội cùng giám sát. Cùng với đó,

Bộ Nội vụ cần tiếp tục rà soát, cải tiến bộ Chỉ số PAR INDEX và Chỉ số SIPAS; nghiên cứu tăng trọng số cho các tiêu chí đánh giá dựa trên kết quả và tác động thực tế, cũng như cảm nhận của người dân và doanh nghiệp. Việc tích hợp một số chỉ số thành phần cốt lõi từ Chỉ số PCI vào bộ tiêu chí của Chỉ số PAR INDEX là một giải pháp quan trọng giúp đánh giá chính xác và toàn diện hơn.

Năm là, tăng cường vai trò giám sát, phản biện của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đồng thời phát huy hơn nữa vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, hội đồng tư vấn cải cách TTHC, các cơ quan báo chí trong việc phát hiện các rào cản, đóng góp ý kiến xây dựng chính sách và giám sát quá trình thực thi.

Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ cần phối hợp với Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và các bộ, ngành liên quan để thiết lập các kênh đối thoại chính sách định kỳ, thực chất, nơi mà các vướng mắc của doanh nghiệp được lắng nghe và có cơ chế theo dõi việc giải quyết, phản hồi./.

tcnnld.vn